Việt Nam chưa khai thác tốt ‘mỏ vàng’ Internet để phát triển

Interrnet đang đóng góp 0,9% trong GDP của Việt Nam, thấp hơn nhiều so với các quốc gia đang lên khác như Malaysia, Ấn Độ, Trung Quốc.

Theo kết quả khảo sát của công ty tư vấn quản lý toàn cầu McKinsey and Company công bố tại hội thảo “Tác động của Internet tới sự phát triển kinh tế Việt Nam” ở Hà Nội sáng 25/4/2012, Interrnet đóng góp 0,9% trong GDP và đóng góp 1,6% trong 14,4% tỷ lệ tăng trưởng GDP của Việt Nam. Mức đóng góp vào GDP này thấp hơn nhiều so với các quốc gia đang lên như Malaysia (4,1%), Ấn Độ (3,2%), Trung Quốc (2,6%).

Theo ông Shaowei Ying, đại diện McKensey, tuy Internet có đóng góp nhất định vào sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong đó có một phần đóng góp từ mảng tiêu dùng cá nhân, nhưng Internet và thương mại điện tử ở Việt Nam vẫn chưa được khai thác, đầu tư đúng mức. Lý do là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa biết cách khai thác tối đa tiềm năng của Interrnet để tiếp cận khách hàng tốt hơn, tiết kiệm chi phí bán hàng… 

Theo Shaowei, ý nghĩa của Interrnet chính là dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, cũng như người dùng. Ở Indonesia, các công ty du lịch, khách sạn, đến cửa hàng hoa đều xây dựng trang web và bỏ chi phí nhỏ để quảng cáo nhưng doanh thu của họ tăng lên rất nhiều. Vấn đề là người lãnh đạo cần phải hiểu giá trị công nghệ số được sử dụng trong từng ngành để đào tạo người dùng.

Vẫn còn ít doanh nghiệp biết và sử dụng các công cụ truyền thông xã hội phục vụ kinh doanh.

Đối với doanh nghiệp, cũng cần mạo hiểm và biết chấp nhận rủi ro khi áp dụng Internet. Shaowei cho rằng thương mại điện tử ở Việt Nam có tiềm năng lớn để phát triển do hơn 1/3 người dùng Interrnet tại Việt Nam truy cập các trang bán hàng hoặc đấu giá trực tuyến và hơn 50% trong số họ tin rằng mua hàng trực tuyến giúp họ tiếp cận danh mục sản phẩm đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, hiện tại, thị trường này chưa được các doanh nghiệp chú ý đầu tư đúng mức. Chỉ 1% doanh nghiệp sử dụng truyền thông xã hội (social media) trong năm 2011 và chỉ khoảng 10.000 doanh nghiệp có các kiến thức cơ bản về adwords (một hình thức quảng cáo trực tuyến của Google).

Để giải quyết vấn đề này, ông Mai Sen Cang, đại diện Intel cho rằng các cơ quan chức năng, hiệp hội ngành nghề của Việt Nam nên có các chương trình đào tạo cho doanh nghiệp nhận thức rõ hơn về ý nghĩa cũng như tác dụng của Internet.

Còn ông Nguyễn Thanh Hưng, đại diện Hiệp hội TMĐT Việt Nam cho rằng chính sách vi mô cho phát triển kinh tế dường như có sự thắt chặt, áp dụng quản lý chính trị xã hội vào kinh tế nên chưa thật thuận lợi. Chưa có sự tự do hóa thương mại trên nền tảng Interrnet. Theo ông, cơ quan quản lý cần tách bạch nội dung thương mại và văn hóa xã hội trên Internet. Trong khi đó, vấn đề bảo vệ thông tin cá nhân trên Internet rất cần nhưng hiện chưa có.

Mặc dù ở Việt Nam đang có khoảng 30 triệu người dùng Internet (tương đương 30% dân số), nhưng so với các nước trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, tỷ lệ số dân sử dụng Internet của Việt Nam vẫn thấp, đặc biệt là thời gian trực tuyến thấp hơn 22% mức trung bình của khu vực. Người sử dụng Internet Việt Nam dành thời gian trực tuyến trung bình 65 giờ/tháng, trong khi mức trung bình của khu vực là 96 giờ, Indonesia 88 giờ, Singapore và Philipines 81 giờ (theo Mc Kinsey).

 

Chiến lược phát triển Internet ở Việt Nam thời gian tới

Dự kiến tháng 6/2012 tới, Bộ TTTT sẽ trình Chính phủ ban hành Nghị định thay thế Nghị định số 97/2008/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và nội dung thông tin trên mạng. Hiện Bộ đang hoàn thiện dự thảo Nghị đinh mới này.

Theo Thứ trưởng Bộ TTTT Lê Nam Thắng, 3 quan điểm xuyên suốt của Bộ trong quá trình soạn thảo Nghị định này là:

1. Coi Internet là xã hội thu nhỏ: Internet là 1 môi trường mạng và dần dần các hoạt động trên đời thực sẽ chuyển lên mạng. Do đó, ứng xử với Internet như ứng xử với một xã hội. Tương lai, các mạng xã hội trên Internet sẽ phát triển mạnh. Không một văn bản pháp luật nào có thể điều chỉnh toàn bộ các hoạt động trên đó mà phải có nhiều luật. Chẳng hạn, đào tạo trên mạng, chữa bệnh trên mạng, giái trí trên mạng… đều phải tuân theo những luật tương ứng.

2. Internet là cơ sở hạ tầng (CSHT) quan trọng của quốc gia: Cách đây 10 năm, Bộ TTT coi Internet là công nghệ mới. Sau đó 5 năm, quan điểm đã thay đổi và coi Internet là dịch vụ. Nay, Internet được coi là CSHT quan trọng, không chỉ mang lại lợi nhuận trực tiếp mà còn đảm bảo phát triển mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội, tạo điều kiện cho các ngành nghề khác phát triển.

3. Mục tiêu để hợp tác, phát triển: Cho dù có sử dụng các luật kể cả luật hình sự để ngăn chặn cái xấu thì mục tiêu cuối cùng vẫn là để phát triển chứ không phải ngăn chặn, cấm đoán. Vì vậy, các cơ chế chính sách phải theo kịp phát triển chứ không phải hạn chế phát triển.

Dựa trên 3 quan điểm này, Bộ TTTT sẽ xây dựng các chính sách phù hợp, làm cho Internet phát triển hơn, mang lại lợi ích cao hơn nữa cho xã hội, cho người dân.

Theo PC World VN.