Ghép nối với vấn đề nan giải DRM

Kỹ thuật điều khiển sao chép được đưa vào Vista và Windows Media đặt ra nhiều vấn đề phải suy nghĩ. Ai là người có lợi?

Nếu bạn đã từng hỏi năm người dùng hệ điều hành Windows giải thích giúp bạn chương trình quản lý quyền sao chép (Digital Rights Management – DRM) của Vista là cái gì, chắc chắn bạn sẽ nhận được năm câu trả lời khác nhau. Song có một điểm chung là: cho dù nó là cái gì đi chăng nữa thì họ đều không hề thích nó.

Đây là vấn đề nan giải mà Microsoft phải đối mặt khi chuẩn bị phát hành chính thức Vista vào cuối tháng. Dù theo tiêu chuẩn nào thì khả năng của DRM mới trong Vista đều gây khó khăn cho việc bán sản phẩm này. DRM đưa ra các điều khoản quản lý giới hạn nội dung phạm vi sử dụng phương tiện số. Thật khó để tán dương công nghệ gây khó khăn cho người sử dụng.

Microsoft tự định nghĩa DRM theo cách đơn giản là “bất kỳ công nghệ nào dùng để bảo vệ quyền lợi nội dung và dịch vụ của người dùng”. Khái niệm thì dễ hiểu, nhưng thực tế công nghệ hiện đại của DRM gồm vô số chương trình bảo vệ nội dung trên cơ sở phương tiện truyền thông, phần cứng, phần mềm. Nhiều trong số chung ít hoặc thậm chí không hề phổ biến.

DRM ở mức phần cứng

Công nghệ DRM của Vista gồm một số kiểu khác nhau. Trong đó hầu hết hoặc là hoàn toàn mới hoặc có sự thay đổi đáng kể so với các phiên bản cũ trước Vista. Mô hình Trusted Platform Module (TPM) do Intel phát triển làm cho DRM khó bị phá vỡ khi mở rộng phạm vi hệ điều hành cũng như khi được tích hợp vào các thành phần phần cứng máy tính.

TPM được dùng với kỹ thuật mã hoá full-drive (đầy ổ) BitLocked của Vista để bảo vệ dữ liệu máy tính trước các nguy cơ bảo mật. Một siêu chip (microchip) TPM được nhúng trên bo mạch chủ máy tính lưu trữ chương trình định dạng hệ thống duy nhất cùng khoá giải mã BitLocker. Khi một hệ thống bị xáo trộn (như ổ cứng bị tháo ra, thay thế ở máy khác), TPM sẽ xác định kiểu xáo trộn và ngăn chặn ổ bị giải mã.

Một tập hợp các công nghệ liên quan đến nhau được nhóm lại dưới cái tên Out Protection Managerment (OPM) – Chương trình quản lý bảo vệ đầu ra cũng sử dụng DRM ở mức phần cứng. Có lẽ công nghệ nổi bật nhất (và cũng “khét tiếng” nhất) trong nhóm OPM là Proteced Video Path (PVP). Đó là dẫn chứng rõ ràng, dễ hiểu và đặc trưng nhất khi bạn muốn biết DRM ở mức phần cứng làm việc như thế nào và nó có thể làm được gì. Công nghệ bảo vệ nội dung chống sao chép lậu PVP được hỗ trợ trên cả Windows Vista và bên trong số lượng nhỏ nhưng ngày càng lớn dần các bộ điều hợp đồ hoạ điểm cuối cao, chế độ hiển thị rõ nét cao và thậm chí ở cả các cáp kết nối hiển thị số. Được dùng với ý định (đầu tiên và trước nhất) để bảo vệ nội dung số chất lượng cao đang dần được đưa vào kỹ thuật phương tiện truyền thông quang HD-DVD và Blu-ray.

Hầu hết các đĩa DVD thương mại tất nhiên đều có công nghệ chống sao chép. Tuy nhiên kỹ thuật này chỉ hoạt động khi có chương trình chạy DVD của chính nó. Nhưng lại không thể ngăn chặn việc sao chép nội dung được bảo vệ theo chiều từ card đồ hoạ tới màn hình người dùng, một vấn đề đôi khi còn được gọi là “analog gap” (lỗ hổng tương tự).

PVP khắc phục được các lỗ hổng bảo mật này sẽ cho phép một loạt khả năng DRM giữ dòng nội dung mã hoá có độ phân giải cao. Và do đó chúng hoàn toàn được bảo vệ, từ phương tiện gốc, theo mọi hướng tới màn hình hiển thị dùng để xem. Nếu hệ thống phát hiện đường dẫn xuất có độ phân giải cao trên một PC người dùng (ví dụ như một hệ thống có khả năng chuyển nội dung phân giải cao theo mọi hướng tới thiết bị hiển thị của người dùng), nó sẽ kiểm tra để chắc chắn rằng mọi thành phần liên quan đến dòng nội dung được bảo vệ đều có trong bản ghi chi tiết. Nếu tìm thấy một thiết bị không phục tùng, nó có thể giáng cấp dòng nội dung xuống thành dòng phân phối ảnh chất lượng kém hơn, hoặc thậm chí có thể từ chối hiển thị nội dung, tuỳ thuộc vào quyền tham chiếu của người nắm giữ.

Tất cả các điều trên đề cập đến mẫu người dùng Windows Vista điển hình, những người chỉ muốn ngồi một chỗ, thoải mái, thư giãn xem một bộ phim trên chiếc máy trong mơ mới toanh, đầy tính nghệ thuật của anh ta? Tất nhiên còn tuỳ thuộc nhiều vào quy mô của cái mà anh ta muốn xem. Bộ phim đạt doanh thu lớn mới nhất của Hollywood thì phù hợp hơn nhiều đòi hỏi trên một hệ thống kiểu PVP. Nhưng sớm hay muộn hầu hết người dùng Vista cũng sẽ phải đối mặt với chương trình bảo vệ nội dung PVP. Thậm chí còn có thể hơn thế nữa. Có thể họ sẽ gặp phải chút thất vọng, nản lòng hoặc thậm chí là giận dữ.

Matt Rosoff, chuyên gia phân tích hàng đầu ở hãng nghiên cứu Directions On Microsoft khằng định rằng chương trình này không đem lại cái gì tốt đẹp với những kiểu định dạng nội dung mới như Blu-ray hay HD-DVD. Không có cái nào trong số chúng kết hợp phù hợp với công nghệ DRM. “Tôi không nghi ngờ về khả năng tích hợp DRM trong Vista, dù đứng ở góc độ kỹ thuật hay thương mại. Nhưng nó quá không thân thiện với người dùng đến mức tôi nghĩ rằng đến một lúc nào đó nó sẽ gây lỗi. Và khi bị lỗi thì sẽ kéo chìm bất cứ nội dung định dạng mới nào người sở hữu đang cố gắng nhập vào”, Rosoff tuyên bố.

Yếu tố Hollywood – bệnh “sao”

Như ngụ ý trong bài phát biểu của Rosoff, nhiều công nghệ DRM của Vista tồn tại không phải vì Microsoft muốn có chúng. Chúng được phát triển theo yêu cầu của các hãng sản xuất phim, hãng ghi đĩa và nhiều nơi sở hữu luật trí tuệ.

“Microsoft phải đối mặt với một nhóm các công ty không tin tưởng vào công nghiệp phần cứng. Họ muốn kiểm soát được nhiều hơn và có độ bảo mật cao hơn”. Nếu Microsoft không đáp ứng các yêu cầu của họ, “họ sẽ gây khó khăn dễ dàng cho Vista” bắng cách ngừng hỗ trợ các kiểu định dạng DVD thông thường tiếp theo và nhiều nội dung có giá trị cao khác.

Microsoft với DRM trong Vista, cung cấp cho người dùng khả năng truy cập nội dung chất lượng cao. Trong khi những người nắm giữ quyền hạn khác chỉ phục vụ ở mức thấp. “Để lưu trữ các dòng nội dung này, các tiêu chuẩn thích hợp phải được đặt đúng chỗ phù hợp cho người sở hữu nội dung. Kết hợp đồng thời khi cung cấp cho người dùng kinh nghiệm những điều họ muốn và mong đợi”, Jonathan Usher – giám đốc Nhóm công nghệ truyền thông người tiêu dùng (Consumer Media Technology Group) trong bộ phận Giải trí và Thiết bị (Entertainment and Devices) của Microsoft nói. “Chúng tôi mong muốn những tính năng cải tiến trong Windows Vista sẽ thu hút nội dung mới cho máy tính, chính xác là những gì khách hàng muốn”.

Usher cũng chỉ ra rằng, mặc dù Microsoft cung cấp công nghệ DRM nhưng sử dụng nội dung đó cho mô hình kinh doanh hay không hoàn toàn tuỳ thuộc vào nhà sản xuất, cung ứng hay các doanh nghiệp. “Chúng tôi giống như người cung cấp cái nền tảng, giúp bạn hàng kiểm tra và thực thi mô hình, viễn cảnh kinh doanh mới”, Usher phát biểu. “Thị trường cạnh tranh lành mạnh và cân bằng cho bất kỳ hệ thống doanh nghiệp tự do nào vẫn đang bỏ ngỏ”.

“Khách hàng mới là người phán quyết cuối cùng vì họ bỏ phiếu cho chúng ta, chi hầu bao cho chúng ta. Thị trường vẫn công bằng và mở rộng. Chúng tôi tin tưởng rằng những tính năng nâng cao ở Windows Vista sẽ mang đến nhiều hướng khả quan mới”.

Hollywood không chỉ là nhóm duy nhất thu được lợi nhuận từ sự phân loại công nghệ bảo vệ nội dung của Vista. Microsoft có thể khẳng định một cách thực sự rằng hãng không muốn chương trình DRM bổ sung vào Vista vì lợi nhuận của Hollywood. Nhưng những khoản lợi nhuận từ chương trình điều khiển DRM Vista thì vẫn ổn định, cả bây giờ và trong tương lai.

WGA: bản chung tiếp theo

Một trong những kiểu định dạng này được gọi là Software Protection Platform (SPP), hầu hết được đề cập với tính toàn vẹn của Windows. Bản chung tiếp theo của chương trình Windows Genuine Advantage (WGA) Microsoft, SPP đòi hỏi người dùng phải có mã bản quyền phần mềm trong 30 ngày kích hoạt. Người dùng không có mã hợp lệ sẽ bị cấm sử dụng một số thành phần nào đó, kể cả giao diện đồ hoạ người dùng Aero, ứng dụng thực thi hệ thống ReadyBoost và điều đáng tranh luận nhất – chương trình antispyware Windows Defender.

Sau 30 ngày, Vista sẽ giảm mô hình tinh năng, tương tự Windows Safe Mode. Người dùng có quyền truy cập trình duyệt Web (vì thế họ có thể xác nhận hoặc mua bản copy của Vista) nhưng không có bất kỳ tính năng nào khác.

Windows Media

DRM dựng sẵn trong phiên bản Windows Media mới nhất của Microsoft, giúp nâng cấp đáng kể cho Vista, mặc dù hiện nay các phiên bản trước đó của Windows Media cũng được kết hợp với DRM, được gọi là kiểu định dạng WMDRM. Vấn đề chủ yếu ở đây, theo Bill Rosenblatt, người sáng lập GiantSteps Media Technology Stragtegies và đồng thời là người biên dịch quản lý của Jupiter Media là chương trình thư tin “DRM Watch”, cách dùng mở rộng của WMDRM. Cách dùng này theo tiêu chuẩn DRM nhạc số “de facto”.

Bên cạnh chức năng bảo vệ nội dung cơ bản cho hầu hết mọi dịch vụ nhạc số (ngoại trừ iTunes Music Store của Apple), WMDRM còn cung cấp lượng cân bằng giữa nhạc số và chương trình nghe nhạc di động có cùng nhãn với biệt danh “PlaysForSure” người bảo trợ Microsoft.

“Microsoft đã phát triển một hệ thống các nhà sản xuất thiết bị dựa trên WMDRM 10”, phiên bản được giới thiệu cùng với Windows XP. “Kết quả là plaform Windows đã phát triển được một lượng khả năng thực hiện cao” giữa các dịch vụ nhạc như Napster và MusicMatch, đồng thời giữa các nhà sản xuất phần cứng.

Nhưng, theo Rosenblatt thì vẫn còn có vấn đề ở tầng trên cùng.

Còn đối với Zune?

Microsoft phải đối mặt với một vấn đề nan giải: những nỗ lực hiện tại của công ty, bao gồm cả chương trình PlaysForSure vẫn không giúp cải thiện vị trí của hãng trước iPod của Apple Computer. Chương trình nghe nhạc di động phổ biến nhất hiện nay này đang nắm giữ hơn 70% thị trường chia sẻ và rất khó bị lung lay vị trí của mình. Nhưng với thiết bị mới – Zune và nhiều hoạt động nhỏ lẻ kết hợp khác, một bước chuyển đáng kể giúp WMDRM trở lại cuộc đua nhanh nhẹn và sáng giá hơn trước.

“Các bài hát mua từ Zune có thể không nghe được trên các thiết bị PlaysForSure khác. Zune sẽ giảm thao tác cho các hoạt động. Khách hàng mua các track nhạc từ Napster có thể nghe trên Zune, nhưng không có chiều ngược lại”.

“Vì sao chúng ta phải làm điều này? Chiến dịch hệ thống hoá thiết bị còn quá manh mún, quá tổng hợp để dùng và quá khó cho thị trường người sử dụng. Đây không phải là chiến dịch hiệu quả trước Apple”. Thêm vào đó, WMDRM của Microsoft “linh hoạt và mạnh hơn platform FairPlay DRM riêng của Apple. Nó cũng tổng hợp hơn và sự dàn xếp của PlaysForSure không giúp được trong vấn đề này”.

Usher Jonathan của Microsoft cũng xác nhận rằng các giai đoạn khác nhau giữa Zune và PlaysForSure là cần thiết để Microsoft phân phối kiểu kinh nghiệm người dùng và thành phần thiết lập cho Zune. “Zune là để tập trung vào xây dựng một cộng đồng giàu có và dịch vụ quanh hàng hoá cung cấp cho người tiêu dùng, tích hợp hình thức end-to-end. PlaysForSure còn được thiết kế cho các bạn hàng chọn khả năng tương thích bảng. Ví dụ như cho nhà sản xuất thiết bị nào đó muốn kết nối đa dịch vụ, hoặc một nhà cung cấp dịch vụ muốn kết nối đa thiết bị”.

Rosenblatt và Rosoff đều nhấn mạnh rằng Zune có ý nghĩa nhiều hơn chỉ là một dự án hão huyền cho Microsoft. Thậm chí đó là một cố gắng mở ra cuộc đối đầu thứ hai với đối thủ cạnh tranh Apple. Cả hai chuyên gia phân tích đều cho rằng Zune, giống như game console Xbox của công ty, là “bờ giậu” cho Microsoft trước sức tăng ngày càng lớn của hình thức truyền thông số đa phương tiên.

“Khách hàng sẽ tự nhiên muốn biết: ‘Điều gì đang diễn ra khi tôi cố gắng nghe một đĩa DVD Blu-ray hoặc HD-DVD, hay một số kiểu nội dung được bảo vệ trên Vista?'”, Rosoff bổ sung. “Và câu trả lời của Microsoft là gì? ‘Điều đó còn tuỳ thuộc vào người dùng’ Đó không thực sự là một câu trả lời khích lệ”

Kinh doanh DRM

Cuối cùng, Bill Rosenblatt chỉ ra rằng, có thể Microsoft vẫn chưa đưa công nghệ DRM vào hoạt động kinh doanh vì lợi nhuận, không phải chỉ trong thị trường người tiêu dùng mà còn trong cả thị trường doanh nghiệp. Ở thị trường mới, công nghệ bảo vệ nội dung đang dành chiến thắng. Số lượng nhà hỗ trợ nhìn ra sự quan trọng cần phải trang bị vũ khí trước nguy cơ mất dữ liệu, khắc phục các nhầm lẫn tai hại thường xuyên diễn ra và nhiều lỗi chương trình kinh doanh đáng giá tiềm ẩn khác ngày càng tăng.

“Microsoft thực sự đã đạt được thành công ở mức nào đấy khi phát hành lại Windows Rights Management Services năm 2003. Nếu Microsoft có thể gia tăng thêm nỗ lực tiếp thị cho sản phẩm này trong Vista, tôi không nghĩ rằng điều đó đáng thất vọng”, Rosenblatt kết luận.