Tăng tốc cho Vista

Hiệu suất là thứ không sờ thấy được nhưng lại là thứ đáng mong muốn nhất khi nói đến các máy tính, việc điều chỉnh để có được hiệu suất mong muốn được xem như là một quy luật tất yếu hơn là một việc thông thường. Mục đích chính của hiệu suất ở đây là có được thời gian đáp ứng hệ thống nhanh hơn, các game chạy nhanh hơn, thời gian khởi động và tắt máy tính ngắn hơn…

Có một cách là tăng tốc các thành phần của hệ thống như tăng tốc độ CPU chẳng hạn. Một cách khác là điều chỉnh ngay trong chính hệ điều hành. Trong bài viết này chúng tôi sẽ giới thiệu cho các bạn một số chỉ dẫn giúp tăng tốc độ của hệ điều hành Windows Vista.

Giữ cập nhật mới các driver

Bước đầu tiên để tối ưu Vista đó là luôn nâng cấp cho các driver của bạn. Kiểm tra các driver mới cho tất cả phần cứng. Không chỉ có các driver mới có thể nâng được hiệu suất mà chúng còn có nhiều tính năng khác hỗ trợ thêm. Ngay như thời điểm hiện nay chúng ta đang đợi để có được chất lượng video tốt hơn từ card ATI của AMD và một tập các tính năng đầy đủ cho card SoundBlaster X-Fi của Creative Labs.

Bỏ những gì không cần thiết

Nếu bạn là người đã nhiều lần cài đặt các phiên bản Windows trước Vista thì bạn có thể nhận thấy ngay một điều là Windows Vista ít khi hỏi bất cứ câu hỏi nào về máy tính – những câu hỏi để bạn lên kế hoạch thực hiện nó – như các phiên bản trước đây vẫn thực hiện. Thay vì việc không hỏi nhiều, Windows Vista thực hiện tất cả các giả định về thói quen tính toán và các tính năng mà bạn có thể cần hoặc không. Bạn có thể loại bỏ các thành phần không cần thiết này. Windows XP có tính năng Add/Remove Programs trong Control Panel, ở Vista cũng có thành phần như vậy.

1, Mở Control Panel và nhấn Uninstall a Program để khởi chạy Uninstall or Change a Program Window của Vista. Trong cửa sổ Tasks phía bên trái, kích vào Turn Windows Features On or Off.

2, Kiểm tra danh sách các tính năng. Mỗi một tính năng có một hộp kiểm phía trước, hộp kiểm này nếu được tích sẽ chỉ thị tính năng đó được cài đặt. Nếu bạn di chuyển chuột qua một tính năng nào đó, một chỉ dẫn nhỏ sẽ xuất hiện cho biết một số thông tin về nó.

3, Bỏ chọn bất kỳ chức năng nào mà bạn không cần đến. Nhiều chức năng có các chức năng con bên trong, để bỏ chọn những chức năng con đó bạn phải mở rộng chức năng bên ngoài bằng cách nhấn vào dấu “+” đầu mỗi mục.

Lưu ý rằng bỏ chọn các tính năng không có nghĩa là gỡ bỏ tính năng đó ra khỏi hệ thống mà chỉ là tạm thời không sử dụng chúng vì vậy chúng không chiếm tài nguyên hệ thống của bạn. Làm như vậy cũng giúp bạn dễ dàng khi muốn dùng một chức năng nào đó bằng cách tích vào hộp kiểm là xong.

Nhấn vào nút Start và đánh services.msc sau đó nhấn Enter (con trỏ chuột sẽ vào mục Search khi bạn bấm vào nút Start; bạn có thể thường xuyên nhập vào bất cứ chương trình nào hoặc những module bạn muốn chạy ở đây).

Applet Services xuất hiện. Mỗi một dịch vụ có lồng vào một ít mã hỗ trợ cho những gì máy tính có thể kiểm tra hoặc thi hành.

Các dịch vụ đã được viết gồm có một mô tả về những gì chúng thực hiện (chú ý, nhiều dịch vụ của nhóm thứ ba không có mô tả). Cột trạng thái trong cửa sổ Services thể hiện cho bạn thấy dịch vụ đó có được khởi chạy hay không. Startup Type có nghĩa là dịch vụ đó sẽ bắt đầu như thế nào:

  • Automatic, nghĩa là dịch vụ sẽ bắt đầu khi Windows được khởi động
  • Manual, nghĩa là dịch vụ bắt đầu khi Windows phát hiện thấy cần thiết đến nó.
  • Disabled, nghĩa là dịch vụ sẽ không được thực thi.

Hầu hết các dịch vụ đều được thiết lập ở trạng thái Automatic hoặc Manual. Bạn không cần phải thay đổi bất kỳ dịch vụ Manual nào; chúng chỉ bắt đầu khi nó cần đến chúng để thực hiện một công việc gì đó. Có thể có một số dịch vụ tự động không cần đến. Bạn có thể tìm một danh sách đầy đủ các dịch vụ tại TweakHound, một nguồn tin phong phú cho tất cả các loại điều chỉnh.

Để thay đổi cách các dịch vụ bắt đầu, bạn chỉ cần kích chuột phải và chọn Properties. Nếu không muốn dịch vụ nào đó nạp vào thì đầu tiên dừng dịch vụ đó bằng nhấn Stop, sau đó bạn kéo danh sách Startup Type xuống và thiết lập dịch vụ sang chế độ Manual hoặc Disabled.


Thuộc tính cho một dịch vụ

Nếu không chắc chắn về một dịch vụ, bạn nên thiết lập nó sang chế độ Manual để đảm bảo an toàn. Còn nếu trường hợp bạn biết chắc chắn không cần đến dịch vụ đó thì mới nên chọn Disabled.

Những dịch vụ cần thiết phụ thuộc vào những gì bạn thực hiện với máy tính. Ví dụ, nếu bạn không sử dụng ReadyBoost, thì hoàn toàn có thể vô hiệu hóa dịch vụ này; ngoài ra bạn cũng có thể vô hiệu hóa Windows Error Reporting (báo cáo lỗi của Windows) nếu không muốn chúng báo cáo lỗi; có thể vô hiệu hóa Tablet PC Input Service nếu không muốn sử dụng tính năng này…

Bạn có thể vô hiệu hóa hầu hết các dịch vụ bắt đầu tự động ở chế độ mặc định dưới đây:

  • Computer Browser
  • Distributed Link Tracking Client
  • IKE and AuthIP IP Keying Modules
  • Offline Files
  • Remote Registry
  • Tablet PC Input Service (trừ khi bạn sử dụng Tablet PC)
  • Windows Error Reporting

Một số dịch vụ bạn tuyệt đối không được vô hiệu hóa gồm:

  • Multimedia Class Scheduler
  • Plug and Play
  • Superfetch
  • Task Scheduler
  • Windows Audio
  • Windows Driver Foundation

Thực hiện các thao tác này phải được kiểm tra ngay lập tức, nếu có bất kỳ một hiện tượng nào đó không làm việc thì bạn cần phải thay đổi trở về trạng thái ban đầu đối với dịch vụ mà bạn vừa điều chỉnh gần nhất.

Lấy một ví dụ, đây là các dịch vụ mà chúng tôi đã vô hiệu hóa trên máy tính chơi game kết nối mạng.

  • DFS Replication
  • Computer Browser
  • Distributed Link Tracking Client
  • IKE and AuthIP IPsec Keying Modules
  • IP Helper
  • IPsec Policy Agent
  • KtmRm for Distributed Transaction Coordinator
  • Offline Files
  • Remote Registry
  • Secondary Logon
  • Security Center (Sử dụng lời cảnh báo nếu bạn vô hiệu hóa các dịch vụ bảo mật!)
  • SSDP Discovery
  • Tablet PC Input Service
  • Terminal Services
  • Windows Defender (Giống như cảnh báo trên!)
  • Windows Error Reporting Service

Gỡ bỏ bớt chương trình chạy ngầm

Hoạt động được tổ chức hợp lý nhất chỉ có một số ít chương trình chạy ở chế độ nền, bạn có thể nhìn thấy cả một mảng các chương trình đang chạy ở chế độ này trong system tray (vùng gần đồng hồ trên thanh taskbar). Bạn có thể nhìn thấy nhiều biểu tượng ở đây, nhiều chương trình đang chạy mà thực sự không cần thiết.

Chúng tôi đưa ra cho các bạn một quá trình gồm có hai bước để loại bỏ các applet nền không cần thiết này. Kiểm tra các biểu tượng đó và sử dụng giao diện từ các chương trình để vô hiệu hóa chúng . Sau đó chạy MSCONFIG để xóa sạch nhữ gì không cần thiết liên quan đến chúng.

Trước tiên, nhìn vào system tray ở góc phải dưới cùng màn hình. Có một số biểu tượng đang nằm ở đây; quan sát bạn có thể nhìn thấy biểu tượng loa, nguồn, biểu tượng Sidebar, trạng thái mạng và một số biểu tượng khác. Hãy tìm các biểu tương “nhóm thứ ba”; như trong ảnh dưới đây, QuickTime và Steam chiếm mất một phần của thanh taskbar này.

Kích chuột phải vào biểu tượng nào không phải là trạng thái của Windows. Tìm các thiết lập, thuộc tính hay những tùy chọn khác. Sau đó tìm cách để ngăn chặn không cho chương trình này load ra khi Windows khởi động. Ví dụ, để không cho Steam tự động load bạn chỉ cần:

1, Kích chuột phải vào biểu tượng Steam

2, Kích Settings

3, Kích Interface (xem hình dưới)

4, Bỏ chọn Run Steam When Windows Starts.

5, Kích OK

Với Quicktime thì có nhiều khó khăn hơn, bạn có thể làm cho nó không xuất hiện trong system tray nhưng nó vẫn chạy âm thầm ở trong nền hệ thống. Cũng có một số chương trình khác không hiển thị biểu tượng tại đây thì chúng ta sử dụng phương pháp thứ hai.

Kích chuột vào nút Start, đánh msconfig sau đó nhấn Enter.

Cửa sổ System Configuration sẽ xuất hiện, nó cũng có các chức năng tương tự như ở Windows XP, kích vào tab Startup.

Nhìn vào danh sách các mục trong startup. Phía trước mỗi mục có một hộp kiểm. Bạn có thể sử dụng hộp kiểm này để không cho phép chương trình đó chạy khi Windows khởi động bằng cách bỏ chọn trong hộp kiểm đó.

Bạn sẽ thấy QuickTime sẽ không bị vô hiệu hóa từ giao diện ngoài của nó. Để vô hiệu hóa nó bạn bỏ chọn trong hộp kiểm để chương trình này không còn chạy trong chế độ nền, chế độ làm chậm hệ thống vì nó phần nào đó chiếm mất một số tài nguyên hệ thống của bạn.

Steam, QuickTime, và các chương trình khác như vậy sẽ được khởi tạo một cách tự động khi chúng đươc gọi. Ví dụ, nếu bạn khởi chạy một file MOV, QuickTime sẽ được khởi chạy dù nó đang không hoạt động trong chế độ nền. Steam cũng sẽ được khởi chạy khi bạn chạy Steam game.

Một số mục cần thiết mà bạn không nên vô hiệu hóa, để chúng thường xuyên chạy trong chế độ nền. Ví dụ như Windows Defender, nếu máy tính của bạn truy cập Internet mà thiếu một chương trình chống virus thì khó có thể bảo vệ bạn và máy tính.

Những nguyên tắc quan trọng bạn cần phải tuân theo đó là: nếu ứng dụng trong MSCONFIG tham chiếu đến phần cứng thì bạn nên giữ chúng. Nếu nó tham chiếu đến phần mềm thì hoàn toàn có thể loại bỏ (trừ khi nó là một chương trình bảo mật quan trọng). Các applet phần cứng thường cung cấp cho các ngoại vi cần thiết; applet phần mềm lại hỗ trợ một chương trình phần mềm nào đó cho chúng hoạt động nhanh hơn. Khi bạn đã làm xong công việc bỏ chọn các hộp kiểm không cần thiết, khởi động lại máy tính.

Sử dụng ReadyBoost

ReadyBoost là một tính năng của Vista sử dụng thiết bị lưu trữ USB tương thích để nâng cao hiệu suất. Lưu ý rằng tính năng này không phải là để nâng cấp bộ nhớ và nó không ảnh hưởng đến hiệu suất game – bạn sẽ không có tốc độ hơn bằng cách thêm ổ này vào hệ thống.

ReadyBoost trữ dữ liệu đọc trên đĩa và có thể tăng tốc truy cập dữ liệu. Dữ liệu đọc từ một USB hoặc thiết bị ReadyBoost khác nhanh hơn nhiều so với đọc một cách ngẫu nhiên từ một trục đĩa trong ổ đĩa cứng. Dữ liệu ReadyBoost được mã hóa, vì vậy nếu một ai đó lấy trộm thì cũng không thể mở dữ liệu đó được. Nó là một ổ dữ liệu an toàn và còn có thể tăng được tốc độ truy cập trong một số trường hợp nào đó.

Để kích hoạt ReadyBoost, bạn chỉ cần cắm thiết bị flash (Microsoft khuyên bạn nên dùng cùng kích thước với dung lượng chính của bộ nhớ hệ thống. Ví dụ, nếu bạn có RAM 1GB, hãy dùng một thiết bị ReadyBoost 1GB). Hệ thống sẽ tự động phát hiện đĩa flash và sử dụng nó như một ổ đĩa mở rộng hoặc như một ổ đĩa ReadyBoost. Đơn giản bạn chọn cái sau, khi đó màn cửa sổ xuất hiện như hình dưới đây:

Bạn có thể thay đổi tốc độ trên thiết bị được sử dụng. Windows sẽ nhắc nhở số lượng mà nó có thể sử dụng với hiệu quả cao nhất. Kích OK.

Việc bổ sung một ổ đĩa ReadyBoost không giống như việc gấp đôi bộ nhớ máy tính nhưng hiệu suất cho thấy hoàn toàn đáng giá với giá thành của ổ USB.

Tăng tốc giao diện

Các tính năng Windows Vista có giao diện đẹp mắt nhất trong các hệ điều hành hiện có. Hệ thống giao diện được điều khiển bằng Direct3D và card đồ họa của bạn làm cho nó trở nên tao nhã và thú vị khi làm việc.

Tuy nhiên, giao diện mới, Aero, cũng tiêu tốn nhiều hiệu suất hệ thống. Nếu bạn đang sử dụng Vista trên một máy tính có cấu hình gần hoặc hơn với cấu hình yêu cầu cho hệ thống thì bạn có thể tách một số tính năng đó ra khỏi hệ thống.

Bạn có thể điều chỉnh sự tinh vi của giao diện:

– Bỏ kiểu dáng trong suốt: Kích chuột phải vào màn hình nền desktop, kích Personalize Windows Color and Appearance, bỏ chọn Enable Transparency cuối cùng nhấn OK.

– Bỏ Sidebar. Một số gadget cũng làm mất bộ nhớ hệ thống. Kích chuột phải vào Sidebar, chọn Properties, bỏ chọn Start Sidebar When Windows Starts, nhấn OK. Sau đó kích chuột phải vào Sidebar nhấn Close Sidebar. Nếu muốn sử dụng nó trở lại, bạn đơn giản chỉ cần vào Start, đánh “sidebar“, sau đó nhấn Enter.

– Bỏ một số hiệu ứng ảo. Mở Control Panel, kích Performance and System Tools, kích Adjust Visual Effects. Trong cửa sổ hiện ra, bỏ chọn ở dòng các mục cho hiệu ứng hoạt ảnh, mờ dần và các hiệu ứng khác hoặc đơn giản chỉ cần kích Adjust For Best Performance.

– Sử dụng màn hình không Aero. Để bỏ toàn bộ Aero tức là sử dụng màn hình desktop như các kiểu cũ trước đây, bạn chỉ cần kích chuột phải vào màn hình desktop, kích Personalize, chọn Windows Color and Appearance. Kích Open Classic Appearance Properties… và chọn chủ đề trong danh sách Color Scheme. Sau đó nhấn OK.

Khi bạn thực hiện các điều chỉnh như vậy, Windows Vista trông sẽ không đẹp, mặc dù vậy nó sẽ cho bạn có được tốc độ nhanh hơn. Một hệ thống có cấu hình cao sẽ không thấy thay đổi rõ rệt nhưng với một hệ thống có cấu hình thấp thì bạn sẽ thấy hiệu quả tức thì.

Một số thành phần khác

Tiếp theo là một số thành phần khác. Thứ đầu tiên cho hệ thống đó là phải có nguồn cung cấp một cách liên tục (UPS).

Nếu hệ thống của bạn được trang bị ổ cứng serial-ATA (SATA), vào Device Manager (cách nhanh nhất để vào là nhấn vào Start, nhập vào “Device Manager” sau đó nhấn Enter). Mở rộng toàn bộ các ổ đĩa. Kích chuột phải vào ổ cứng SATA và chọn Properties. Kích tab Policies, và chọn Enable Advanced Performance. Tùy chọn này cho phép tăng tốc độ truy cập nhưng cũng gây ra việc mất dữ liệu khi nguồn mất đột ngột.

Một số điều chỉnh khác cần phải vào chức năng registry. Để thực hiện nó, bạn nhấn Start, đánh regedit sau đó nhấn Enter.

Chú ý: bạn nên thực hiện một sao chép dự phòng registry trước khi thay đổi nó. Kích File, kích Export, trong cửa sổ kết quả hiện ra, bạn phải chọn phần All ở phía dưới. Đặt tên file sau đó kích Save. Việc làm đó sẽ tạo cho bạn một backup đầy đủ cho registry hệ thống; nếu gặp phải trục trặc trong vấn đề thay đổi sau này, bạn có thể khởi động trong chế độ Safe Mode sau đó khôi phục lại registry hệ thống. Bạn có thể tạo một Restore Point trước khi thay đổi registry; vào Control Panel, sau đó là System and Maintenance, System. Nhấn System Protection trong danh sách các nhiệm vụ (Tasks). Kích nút Create…, sau đó theo cửa sổ lệnh.

Chúng tôi giới thiệu cho các bạn hai cách chỉnh sửa registry để tăng hiệu suất. Đầu tiên, tắt các kiểm tra không gian đĩa:

1, Sử dụng cửa sổ bên trái của Registry Editor, bạn chọn đến
  HKEY_CURRENT_USERSoftwareMicrosoftWindows
CurrentVersionPolicies

2, Kích chuột phải vào cửa sổ bên phải vào chọn New Key.

3, Đặt tên cho khóa mới là Explorer.

4, Trong Explorer key, kích chuột phải vào cửa sổ bên phải và nhấn New DWORD (32-bit) Vaue.

5, Đặt tên DWORD NoLowDiskSpaceChecks.

6, Kích chuột phải vào DWORD mới và chọn Modify.

7, Thiết lập giá trị bằng 1

8, Nhấn OK

Bằng cách làm đó bạn sẽ ngăn chặn không cho Windows Vista kiểm tra không gian trong ổ cứng và thông báo cho bạn rằng “Hey, you’re running out of space!” có nghĩa “Này, bạn đang sử dụng hết không gian đĩa rồi!” .

Tiếp theo, bạn có thể vô hiệu hóa NTFS, tạo các phiên bản 8.3 của tên file tương thích với các phiên bản trước.

Mở Registry Editor và:

1, Vào
HKEY_LOCAL_MACHINESYSTEMCurrentControlSet
ControlFileSystem

2, Tìm DWORD được gọi là NtfsDisable8dot3NameCreation.

3, Kích chuột phải vào nó và chọn Modify.

4, Thay đổi giá trị thành 1

5, Kích OK.

Bạn nên khởi động lại hệ thống sau khi đã thay đổi nội dung thanh ghi. Các điều chỉnh đó sẽ làm tăng tốc độ truy cập ổ đĩa cứng bằng việc gỡ bỏ các mặt không cần thiết.

Dồn ổ đĩa

Nếu bạn cho rằng Windows Vista không cần dồn ổ đĩa thì điều đó là phải xem lại. Vista có một chương trình dồn ổ và nó có tác dụng xếp đặt lại các mảng vỡ của dữ liệu trên ổ cứng mỗi tuần một lần.

Trừ khi bạn “ngồi ôm” máy tính 24h một ngày, bằng không hãy sử dụng chức năng Disk Defragmenter (vào Start đánh “defrag” sau đó nhấn Enter), vô hiệu hóa lịch biểu của nó. Bạn có thể sử dụng một phần mềm khác để thực hiện công việc này. Download Disk-Defrag từ AusLogics và cài đặt nó. Sau đó bạn chạy chương trình này. Chương trình này hoàn toàn miễn phí.

Trừ khi bạn cài đặt và gỡ bỏ các chương trình, dịch chuyển dữ liệu và xóa chúng còn không thì bạn không cần phải thực hiện công việc dồn ổ này chí ít là một tháng một lần. Hãy dành một tối sau khi làm việc, chạy ứng dụng Disk-Defrag, sau đó đi ngủ.